Viêm loét đại trực tràng chảy máu là bệnh về đường tiêu hóa, có xu hướng tăng ở các nước phát triển. Bệnh gây loét và tổn thương tập trung ở vùng trực tràng và đại tràng, thường xuất hiện ở người trẻ. Bệnh không được phát hiện, điều trị kịp thời nên dễ gây ra các biến chứng nguy hiểm.

Cùng tìm hiểu thêm về bệnh lý viêm loét đại trực tràng chảy máu qua nội dung bài viết sau. 

Nguyên nhân bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu

Đại tràng là đoạn cuối của đường tiêu hóa, là nơi hình thành và chứa đựng phân trước khi được bài tiết ra ngoài. Đại tràng có thể chia thành: manh tràng, đại tràng phải, đại tràng góc gan, đại tràng ngang, đại tràng góc lách, đại tràng xuống, đại tràng xuống, đại tràng sigma, trực tràng và hậu môn.

Nguyên nhân trực tiếp gây bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu hiện nay vẫn chưa xác định rõ, nhưng bệnh lý này có liên quan tới quá trình đáp ứng miễn dịch. Viêm loét đại tràng chảy máu và bệnh Crohn thường được gọi chung là nhóm bệnh viêm ruột (Inflammatory Bowel Disease- IBD). Khi khởi phát ban đầu, viêm loét đại trực tràng chảy máu có thể chỉ khu trú tại trực tràng, về sau lan dần vào trong, tổn thương có thể toàn bộ đại tràng đôi khi có thể lan cả sang một phần của đoạn cuối ruột non. Tỷ lệ mắc bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu ở cả nam và nữ là như nhau, thường gặp nhất ở tuổi 15 – 30 và 60 – 70 tuổi.

Triệu chứng, biến chứng của bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu

Tùy theo từng mức độ tổn thương mà bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu sẽ có những triệu chứng khác nhau. Các triệu chứng, biểu hiện thường gặp nhất trên người bệnh bao gồm: 

• Bị tiêu chảy nhiều lần trong ngày

Phân có nhiều nhầy máu, nếu bệnh tiến triển nặng có khi chỉ toàn nhầy máu mà không có phân.

 Người bệnh có cảm giác đau bụng, khi đau bụng muốn đi đại tiện ngay, mót rặn khi đại tiện

Ở giai đoạn đầu, bệnh lý này thường bị nhầm là bị bệnh lỵ và tự điều trị nhưng không có kết quả hoặc có giảm bớt triệu chứng nhưng để lâu ngày càng tăng dần và có triệu chứng nặng hơn.

Bệnh lý này thường chỉ khu trú ở trực tràng hoặc đại tràng sigma, hiếm khi có tổn thương cao hơn ở phía trên. Bệnh này cũng có thể diễn tiến thành nặng nếu để lâu.

Trường hợp bệnh tiến triển nặng, người bệnh thường khởi đầu bằng đau quặn bụng, rồi đại tiện phân máu, có thể xảy ra vào ban đêm nhưng số lần đại tiện thường dưới 6 lần/ngày. Thường kèm theo sốt, giảm protein máu, làm bệnh nhân mệt mỏi.

Bệnh trở nên trầm trọng khi người bệnh đại tiện có máu hơn 6 lần/ngày và thường xảy ra về ban đêm. Có cảm giác đau rát, buốt hậu môn và mót rặn. Cơ thể suy sụp với nhịp tim nhanh, huyết áp hạ, sốt cao, bụng trướng. Không được chữa trị kịp thời thì tiến triển rất nặng dẫn đến tử vong do xuất huyết trầm trọng hoặc giãn đại tràng nhiễm độc.

Một số triệu chứng không điển hình ở người bệnh bao gồm: Sốt, thiếu máu, có thể có phù chân do giảm protein máu khi mắc bệnh lâu ngày. Bệnh lý tiến triển nặng có biểu hiện mất nước: khát nước, môi khô, người hốc hác, thậm chí có triệu chứng sốc như: mạch nhanh, huyết áp tụt, đau bụng dữ dội do viêm đại tràng nhiễm độc. Có thể bị sưng đau các khớp, đau vùng thắt lưng và cùng chậu do viêm khớp cùng chậu…

Biến chứng của bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu

Biến chứng thường thấy là người bệnh bị suy kiệt, thiếu máu, sốc do nhiễm độc, có thể thủng đại tràng nếu bệnh tiến triển nặng và không được điều trị đúng cách. 

Những biến chứng nhẹ của ruột là giả polyp ( chỉ xảy ra trong 20% trường hợp). Những biến chứng ít gặp hơn là nứt hậu môn, rò và áp-xe hậu môn. Bệnh kéo dài, không được điều trị thì người bệnh có thể bị chảy máu trầm trọng, hẹp đại tràng, phình đại tràng nhiễm độc, thủng và dẫn đến ung thư.

Viêm loét đại trực tràng chảy máu cũng có thể dẫn tới các biến chứng như: viêm quanh mật quản, viêm khớp, hồng ban nút, viêm da mủ hoại thư, viêm xơ đường mật tiên phát, viêm thận bể thận và sỏi, trong đợt cấp nặng của viêm loét đại trực tràng chảy máu lan rộng có thể có biến chứng đông máu rải rác nội mạc.

Chẩn đoán và điều trị viêm loét đại tràng chảy máu

Điều trị bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu cần theo hướng dẫn của bác sĩ (Ảnh minh họa)

Chẩn đoán bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu như thế nào?

Để chẩn đoán viêm loét đại trực tràng chảy máu, các bác sĩ sẽ thăm khám và chỉ định một số xét nghiệm cận lâm sàng để đưa ra kết luận chính xác. Khi được chẩn đoán sớm, cơ hội điều trị hiệu quả bệnh sẽ tăng lên. Dưới đây là một những phương pháp giúp các bác sĩ chẩn đoán bệnh: 

Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu

Khi chẩn đoán bệnh viêm đại trực tràng chảy máu, bác sĩ thường dựa vào các triệu chứng lâm sàng mà người bệnh gặp phải để đưa ra chẩn đoán ban đầu. 

Chẩn đoán cận lâm sàng khi chẩn đoán viêm loét đại trực tràng chảy máu

Để kết luận chính xác bệnh lý này thì dựa vào những triệu chứng lâm sàng là chưa đủ, một số phương pháp cận lâm sàng có thể sẽ được bác sĩ chỉ định, thường gặp nhất là nội soi toàn bộ đại trực tràng. 

Việc nội soi và quan sát hình ảnh nội soi sẽ giúp bác sĩ xác định người bệnh đã mắc viêm loét đại trực tràng chảy máu và cũng giúp bác sĩ phân loại được từng giai đoạn của bệnh.

GĐ 0: Niêm mạc thường nhạt màu, các mạch máu dưới niêm mạc mỏng hơn so với bình thường.
GĐ 1: Niêm mạc sần sùi, chỉ nhìn thấy 1 phần mạch máu.
GĐ 2: Niêm mạc bị mất nếp ngang, xuất hiện các ổ loét, dễ chảy máu khi đèn chạm phải.
GĐ 3: Niêm mạc bị phù nề, xung huyết, xuất hiện các ổ loét lớn, chảy máu niêm mạc tự phát.

Ngoài ra bác sĩ có thể cần đến một số phương pháp khác để hỗ trợ trong quá trình chẩn đoán: 

- Chụp khung đại tràng: Một số dấu hiệu có thể thấy thông qua hình ảnh như đại tràng dạng ống chì, hẹp đại tràng, phình giãn đại tràng…
- CT Scan ổ bụng: thành đại tràng dày liên tục tập trung ở đại tràng sigma và quanh trực tràng.
- Xét nghiệm máu: Hematocrit thường giảm, Protein phản ứng C tăng, máu lắng tăng…

Điều trị viêm loét đại trực tràng chảy máu

Nguyên tắc điều trị viêm loét đại trực tràng chảy máu

Đối với những bệnh nhân chưa từng điều trị: Bác sĩ sẽ chỉ định điều trị bằng 1 - 2 loại thuốc, đánh giá đáp ứng dựa vào triệu chứng lâm sàng cair sau 10- 15 ngày;
Đối với những bệnh nhân đã hoặc đang điều trị có đợt tiến triển nặng: Tiếp tục điều trị bằng 2 loại thuốc đang điều trị và kết hợp thêm 1 loại thuốc khác;
Trường hợp đã được điều trị và ngừng điều trị lâu nay bị tái phát trở lại: Điều trị khởi đầu như trường hợp chưa được điều trị, nên bắt đầu điều trị bằng loại thuốc khác;
Trường hợp thể nhẹ tổn thương tối thiểu ở trực tràng và đại tràng sigma nên kết hợp thêm thuốc điều trị tại chỗ viên đặt hậu môn và thuốc thụt;
Điều trị gồm có điều trị tấn công và điều trị duy trì, tùy theo tình trạng bệnh mà bác sĩ sẽ chỉ định nhóm thuốc phù hợp. 

Điều trị nội khoa

Truyền máu cho bệnh nhân là phương pháp điều trị nội khoa được cân nhắc tới nếu như đại trực tràng bị xuất huyết nặng gây ra thiếu máu, tụt huyết áp để bù vào lượng máu đã mất;
Chế độ ăn uống của người bệnh cần được điều chỉnh phù hợp, cần tuân thủ chế độ ăn uống giàu dinh dưỡng, lựa chọn thức ăn mềm, dễ tiêu hóa.

Kiêng các loại thức ăn nhiều dầu mỡ, rau sống, đồ uống có cồn, thức ăn cay nóng.

Trong trường hợp các triệu chứng diễn tiến nặng, chế độ dinh dưỡng cần tuân thủ theo hướng dẫn sau: 
+ Triệu chứng nhẹ hoặc vừa: Nên chọn thức ăn mềm, hạn chế chất xơ tạm thời;
+ Triệu chứng nặng, rầm rộ và chưa thể kiểm soát ngay bằng thuốc thì người bệnh cần nhịn ăn hoàn toàn; Nuôi dưỡng đường tĩnh mạch bằng đạm toàn phần, dung dịch acid béo, đường, đảm bảo 2500 Kcalo/ngày; Bổ sung sắt, axit folic 1mg/ngày nếu dùng thuốc 5- ASA kéo dài; Bồi phụ nước điện giải.
+ Phân lỏng: Dùng các thuốc bọc niêm mạc;
+ Đau bụng: Dùng các thuốc giảm co thắt.

Điều trị ngoại khoa 

Các bác sĩ có thể can thiệp ngoại khoa cắt đoạn đại tràng hay cắt toàn bộ đại tràng trong các trường hợp sau: 

- Thủng đại tràng
- Phình giãn đại tràng nhiễm độc;
- Chảy máu ồ ạt mà điều trị nội khoa thất bại;
- Ung thư hóa hoặc dị sản mức độ nặng.

Tổng đài bác sĩ tư vấn và theo dõi điều trị 1800 5454 35 /zalo 0916 561 338. Hãy liên hệ để được tư vấn và theo dõi điều trị miễn phí.